Triều đại Userkaf

Độ dài triều đại

Độ dài chính xác cho triều đại của Userkaf chưa được biết rõ. Dựa vào các bằng lịch sử và khảo cổ học, các nhà Ai Cập học đã nhất trí rằng ông đã trị vì từ 7 tới 8 năm[11][53][54][55] vào thời điểm khởi đầu của vương triều thứ Năm.[15]Đầu tiên, một phân tích đối với biên niên sử hoàng gia Cổ Vương quốc gần đương thời cho thấy rằng triều đại của Userkaf được ghi lại trên 8 ngăn tương ứng với ít nhất 7 năm đầy đủ không hơn.[note 7][58] Năm rõ ràng nhất được ghi lại trên biên niên sử này đối với Userkaf là năm diễn ra lần kiểm kê gia súc thứ ba của ông. Việc kiểm kê gia súc là một sự kiện quan trọng nhằm đánh giá lượng thuế sẽ được thu trên số dân. Sự kiện này được cho là diễn ra hai năm một lần dưới thời kỳ Cổ Vương quốc, nghĩa là lần kiểm kê gia súc thứ 3 tương ứng với năm trị vì thứ sáu của ông. Lần kiểm kê này cũng còn được chứng thực trong một dòng chữ của thợ xây được tìm thấy trên một tảng đá trong ngôi đền mặt trời của Userkaf.[note 8][59] Thứ hai, Userkaf được ghi lại là có một triều đại kéo dài 7 năm trên cột thứ 3, hàng thứ 17 của cuộn giấy cói Turin,[66] một văn kiện được biên soạn dưới triều đại của Ramesses II từ các nguồn cổ trước đó.[67]

Nguồn lịch sử duy nhất ủng hộ cho một triều đại lâu dài hơn đó là tác phẩm Aegyptiaca (Αἰγυπτιακά), một tác phẩm lịch sử của Ai Cập được Manetho biên soạn vào thế kỷ thứ 3 TCN, dưới triều đại của Ptolemy II (283–246 TCN). Không còn bản sao nào của Aegyptiaca còn sót lại cho tới ngày nay và nó chỉ được biết đến thông qua các tác phẩm sau này của Sextus Julius AfricanusEusebius. Theo học giả Byzantine George Syncellus, Africanus đã viết rằng Aegyptiaca đề cập tới sự kế vị "Usercherês → Sephrês → Nefercherês" vào thời điểm khởi đầu của vương triều thứ 5. Usercherês, Sephrês, và Nefercherês được cho là cách gọi theo tiếng Hy Lạp lần lượt dành cho Userkaf, Sahure và Neferirkare.[68]Đặc biệt, sự tái dựng của Manetho đối với giai đoạn đầu của vương triều thứ 5 phù hợp với những gì được ghi lại trong bản danh sách vua Abydosphiến đá Saqqara, hai bản danh sách vua được biên soạn dưới triều đại của Seti I và Ramesses II.[69] Trái ngược với cuộn giấy cói Turin, Africanus thuật lại rằng Aegyptiaca ước lượng triều đại của Userkaf kéo dài trong 28 năm,[68]lâu hơn nhiều so với sự đồng thuận ngày nay.[11][53][54][55]

Người sáng lập nên vương triều thứ Năm

Cuộn giấy cói Westcar, hiện trưng bày tại bảo tàng Ägyptisches, có niên đại thuộc về Vương triều thứ Mười Bảy nhưng câu chuyện của nó có thể được viết dưới thời vương triều thứ 12.[70]

Sự phân chia các vị vua Ai Cập cổ đại thành các vương triều là một sáng tạo trong tác phẩm Aegyptiaca của Manetho, nhằm gắn bó chặt chẽ hơn với những kỳ vọng của những người bảo trợ cho Manetho, các vị vua Hy Lạp thuộc vương triều Ptolemaios.[71]Tuy nhiên, một sự khác biệt giữa triều đại thứ 4 và thứ 5 có thể đã được công nhận bởi người Ai Cập cổ đại, như là được ghi chép lại trong một truyền thuyết lâu đời hơn[24] mà vốn được tìm thấy trong câu chuyện của cuộn giấy cói Westcar. Trong câu chuyện này, vua Khufu của vương triều thứ Tư được báo hiệu về sự sụp đổ của dòng dõi của ông ta và sự trỗi dậy của một vương triều mới thông qua sự lên ngôi của ba người anh em, những người con trai của thần Ra. Câu truyện này có niên đại vào thời kỳ vương triều thứ 7 hoặc có thể là 12.[70]

Ngoài những bằng chứng lịch sử như trên, sự phân chia giữa vương triều thứ 4 và thứ 5 dường như phản ánh những thay đổi thực tế diễn ra vào thời điểm đó, đặc biệt trong tôn giáo của Ai Cập, và trong vai trò của nhà vua.[72] Địa vị tối cao của Ra đối với các vị thần Ai Cập còn lại và sự sùng bái hoàng gia ngày càng tăng dành cho vị thần này biến thần Ra trở thành một dạng vị thần của vương quốc,[54] một điều mới lạ so với vương triều thứ 4, vốn dành phần nhiều tầm quan trọng vào việc an táng của hoàng gia.[9]

Chức vụ của Userkaf trước khi lên ngôi không được biết rõ. Grimal cho rằng ông có thể là Đại tư tế của Ra ở Heliopolis hoặc Sakhebu, một trung tâm thờ cúng thần Ra được nhắc đến trong cuộn giấy cói Westcar.[21][73] Giả thuyết về một mối liên hệ giữa nguồn gốc vương triều thứ Năm và Sakhebu được đề xuất đầu tiên bởi nhà Ai Cập học Flinders Petrie, ông ta đã chú thích rằng trong ngôn ngữ tượng hình của người Ai Cập tên gọi Sakhebu tương tự với của Elephantine, thành phố mà Manetho coi là cái nôi của Vương triều thứ 5. Theo Petrie, việc khẳng định rằng cuộn giấy cói Westcar ghi lại một truyền thuyết mà đề cập đến nguồn gốc của vương triều thứ 5 có thể giải thích cho ghi chép của Manetho, đặc biệt cho thấy rằng không có mối liên hệ cụ thể nào khác giữa Elephantine và các vị pharaon của vương triều thứ 5.[73]

Hoạt động ở Ai Cập

Con dấu trụ lăn của Userkaf đọc là "Userkaf người được yêu quý của các vị thần, người được yêu quý của Hathor"[note 9][73][75]

Ngoài việc xây dựng khu phức hợp tang lễ của mình và ngôi đền mặt trời, có ít điều được biết đến về Userkaf.[3] Malek nói rằng triều đại ngắn ngủi của ông có thể cho thấy ông đã cao tuổi khi trở thành pharaoh.[76] Verner cho rằng triều đại của Userkaf là quan trọng bởi vì nó đánh dấu giai đoạn đỉnh cao của việc thờ cúng thần mặt trời,[note 10] tước hiệu pharaon "Người con trai của Ra" đã trở thành mang tính hệ thống từ triều đại của ông trở đi.[79]

Thượng Ai Cập, Userkaf đã ra lệnh[3] hoặc là đã mở rộng[53] ngôi đền Montu tại Tod, tại đây ông là vị pharaoh đầu tiên được chứng thực.[80] Do sự thay đổi về cấu trúc, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của Trung Vương quốc, Tân Vương quốc và thời kỳ Ptolemaios, chỉ còn ít phần thuộc về ngôi đền gốc ban đầu của Userkaf còn tồn tại tới ngày nay.[81] Đó là một nhà nguyện nhỏ bằng gạch bùn bao gồm một cây cột bằng đá granite,[81] được chạm khắc với tên của vị vua.[82]

Các hoạt động đối nội khác có thể được suy ra từ biên niên sử Cổ Vương quốc, được biên soạn dưới triều đại của Neferirkare hoặc Nyuserre.[note 11][84][85] Chúng ghi lại rằng Userkaf đã ban tặng của cải cho các vị thần của Heliopolis[note 12] vào năm thứ hai và thứ sáu[note 13] dưới triều đại của ông và các vị thần của Buto vào năm thứ sáu của ông, cả hai có thể được dành cho các dự án xây dựng nhân danh Userkaf.[3] Cùng một cách thức như trên, biên niên sử còn ghi lại một sự ban tặng đất đai cho thần Horus vào năm trị vì thứ sáu của Userkaf, lần này đề cập rõ ràng tới "xây dựng ngôi đền [Horus']".[88]

Những vị thần khác được Userkaf tôn kính bao gồm cả Ra and Hathor, cả hai vị thần này đều nhận được sự dâng tặng về đất đai mà được ghi lại trong biên niên sử,[86][89] tương tự là đối với Nekhbet, Wadjet, "thần của vùng đất thiêng ở Thượng Ai Cập" và "thần của điền trang Djebaty", họ được dâng tặng bánh mì, bia và đất đai. Cuối cùng, một mảnh vỡ nhỏ thuộc văn bản trong biên niên sử cho thấy rằng thần Min có thể cũng được hưởng lợi từ sự ban tặng của Userkaf.[88] Bằng chứng khác nữa cho các hoạt động tôn giáo diễn ra vào thời điểm này được biểu lộ bởi một chiếu chỉ của hoàng gia[90] được tìm thấy trong mastaba của một vị quan tên là Nykaankh ông ta được chôn cất tại Tihna al-Jabal ở miền Trung Ai Cập.[21] Theo chiếu chỉ này, Userkaf ban tặng và cải tổ một số lãnh địa hoàng gia dành cho việc duy trì sự thờ cúng thần Hathor[90] và phong cho Nykaankh làm tư tế của việc thờ cúng này.[91]

Trong khi Userkaf chọn Saqqara để xây dựng khu phức hợp kim tự tháp của mình, các quan lại vào thời điểm này bao gồm cả vị vizier Seshathotep Heti, tiếp tục xây dựng lăng mộ của họ tại khu nghĩa trang Giza.[3]

Thương mại và các hoạt động quân sự

Bình đá từ Kythira mang tên ngôi đền mặt trời của Userkaf[26]

Triều đại của Userkaf có thể đã chứng kiến một sự phục hồi về thương mai giữa Ai Cập và những người hàng xóm Aegea của nó như được chỉ ra bởi một loạt các bức phù điêu đến từ ngôi đền tang lễ của ông đang miêu tả những con thuyền tiến hành có thể là một cuộc viễn chinh bằng đường biển.[44][92] Bằng chứng khác nữa cho sự tiếp xúc như vậy đó là một bình đá có mang tên ngôi đền mặt trời của ông được khai quật trên hòn đảo Kythira của Hy Lạp.[26] Chiếc bình này là bằng chứng sớm nhất cho sự tiếp xúc thương mại giữa Ai Cập và khu vực Aegea. Những hiện vật ở Anatolia, có niên đại thuộc về triều đại của Menkauhor KaiuDjedkare Isesi, chứng minh rằng những sự tiếp xúc này đã tiếp tục tồn tại trong suốt thời kỳ vương triều thứ Năm.[53]

Về phía Nam của Ai Cập,[93] Userkaf đã phát động một cuộc viễn chinh quân sự nhằm vào Nubia,[26]trong khi biên niên sử Cổ vương quốc ghi lại rằng ông đã nhận được cống phẩm từ một vùng đất hoặc là Sa mạc phía Đông hoặc Canaan dưới hình thức một lực lượng lao động gồm một tù trưởng và 70 người ngoại quốc[94] (dường như là phụ nữ),[86][95] cũng như là 303 "kẻ phản loạn đã nguôi ngoai" để làm việc tại kim tự tháp của Userkaf.[96] Đó có thể là những tù nhân đến từ một cuộc viễn chinh quân sự khác tới miền đông của Ai Cập[3] hoặc những kẻ nổi loạn bị lưu đày khỏi Ai Cập trước năm thứ hai của Userkaf và giờ đây đang sẵn sàng để tái hòa nhập trở lại với xã hội Ai Cập.[97] Theo nhà Ai Cập học Hartwig Altenmüller những người này đã bị trừng phạt sau các cuộc chiến tranh giành triều đại liên quan đến sự kết thúc của vương triều thứ Tư.[94]

Tượng

Mảnh vỡ từ bức tượng bằng đá thạch cao tuyết hoa của Userkaf được tìm thấy tại ngôi đền mặt trời của ông ở Abu Gurob, ngày nay nằm tại bảo tàng Ägyptisches ở Berlin (ÄM 19774).

Một vài bức tượng bị vỡ nát của Userkaf đã được khai quật, bao gồm một bức tượng bán thân của ông trong ngôi đền mặt trời ở Abusir, ngày nay nằm tại Bảo tàng Ai Cập. Phần đầu của bức tượng Userkaf cao 45 cm (18 in) và được chạm khắc từ đá sa thạch. Tác phẩm điêu khắc này được đánh giá là đặc biệt quan trọng bởi vì nó là một trong số rất ít các tác phẩm điêu khắc có niên đại từ thời kỳ Cổ vương quốc mà có khắc họa cảnh nhà vua đội Deshret (Vương miện đỏ) của Hạ Ai Cập.[note 14]Đầu tượng này được phát hiện vào năm 1957 trong cuộc đồng khai quật thám hiểm của viện Đức và Thụy Sĩ ở Cairo. Một chiếc đầu khác có thể thuộc về Userkaf, đang đội Hedjet của Thượng Ai Cập, nó được tạc từ đá vôi và được sơn màu, hiện nằm tại Bảo tàng Nghệ thuật Cleveland.[note 15][16]

Phần đầu của một bức tượng khổng lồ lớn hơn người thực của Userkaf, ngày nay nằm tại bảo tàng Ai Cập, đã được Cecil Mallaby Firth tìm thấy trong sân đền thuộc khu phức hợp tang lễ của ông ở Saqqarah vào năm 1928.[99] Đầu tượng khổng lồ bằng đá granite hồng của Aswan miêu tả vị vua đội khăn đội đầu nemes với một con rắn hổ mang trên trán của ông.[4][38] Đây là đầu tượng lớn nhất còn tồn tại cho tới ngày nay mà có niên đại thuộc về thời kỳ Cổ Vương quốc ngoại trừ Tượng nhân sư lớn ở Giza[38] và cũng là bức tượng hoàng gia khổng lồ duy nhất từ thời kỳ này.[4] Nhiều mảnh vỡ từ các bức tượng khác của nhà vua làm từ đá diorite và granit cũng đã được tìm thấy tại cùng địa điểm.[99]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Userkaf http://egyptologie.ff.cuni.cz/pdf/AS%202000_mensi.... http://egyptologie.ff.cuni.cz/pdf/Forgotten%20Phar... http://edoc3.bibliothek.uni-halle.de/lepsius/ http://ediss.sub.uni-hamburg.de/volltexte/2004/210... http://archiv.ub.uni-heidelberg.de/propylaeumdok/v... http://digi.ub.uni-heidelberg.de/diglit/mariette18... http://dlib.nyu.edu/awdl/sites/dl-pa.home.nyu.edu.... http://www.ifao.egnet.net/bifao/012/09/ http://www.ifao.egnet.net/bifao/Bifao095_art_03.pd... http://www.archaeogate.org/egittologia/article/657...